Saturday, July 19, 2008

Yếu tố căn bản về bố cục ảnh

A. Năm công thức kinh điển của bố cục:
  1. Không bao giờ đặt chủ đề vào giữa tâm bức ảnh
  2. Mọi bức ảnh chỉ có một và một điểm mạnh duy nhất
  3. Đường cong chữ S là một trong những thủ pháp bố cục được ưa chuộng nhất
  4. Luôn luôn dẫn ánh mắt của người xem đi vào bên trong hình ảnh
  5. Đường chân trời không bao giờ cắt ngang chính giữa mà luôn nằm ở một phần ba phía trên hoặc phía dưới.
B. 6 yếu tố căn bản trong bố cục ảnh

Nếu như vẽ tranh là hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó thì trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại. Trong bố cục ảnh, có 6 chuẩn mực để bạn dựa vào, nhưng để các tấm ảnh có hồn, thu hút và tránh nhàm chán rất cần tới sự vận dụng linh hoạt.

Cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều là nghệ thuật truyền tải thông tin thị giác và chịu sự chi phối của những nguyên lý căn bản về cảm nhận thực thể bằng ánh sáng. Nhưng nếu hội hoạ là nghệ thuật tổng hợp thì nhiếp ảnh là kỹ thuật phân tích. Khi vẽ tranh, hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó. Nhưng trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại…

Với bối cảnh thực có sẵn nội dung và bố cục, tay máy phải thay đổi góc nhìn, sử dụng ống kính wide hay tele, xoay trở khuôn hình để chọn lọc những yếu tố xây dựng lên bức ảnh. Tuy nhiên, dù là thêm vào hay bớt đi các mảng khối trong khuôn hình, cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều hướng tới cách xếp đặt hiệu quả nhất để thể hiện nội dung các tác phẩm. Trong kết quả cuối cùng, ở mức độ nào đó, cả tranh vẽ và ảnh chụp đều được đánh giá bởi một chuẩn mực về bố cục.

Khi đánh giá một bức ảnh, người ta xem xét nó trên những yếu tố căn bản về nội dung, màu sắc, trạng thái và hiệu ứng quang học. Nếu bố cục được nhấn mạnh trong khi các yếu tố khác bị khoả mờ, bản thân nó có thể là chủ đề của nhiếp ảnh.

Hầu hết các yếu tố căn bản này giúp truyền tải thông tin thị giác như điểm và đường nét, hình dạng, màu sắc, chất liệu bề mặt và độ tương phản đều liên quan đến bố cục bức ảnh. Người chụp ảnh dựa trên những nguyên tắc này để phát triển kỹ năng sắp xếp các đối tượng trong khuôn hình.


Tìm ra tiết tấu hay mô thức xếp đặt trong bối cảnh

Đó là kỹ thuật rút ra logic về vị trí, sự xếp đặt các vật thể trong khuôn hình, chọn được góc đặt máy tốt nhất phản ánh tiết tất và mô thức trên các vật thể. Kỹ thuật này rất phổ dụng đối với ảnh kiến trúc, giao thông, dây chuyền sản xuất… Việc phát hiện logic xếp đặt trong một bối cảnh lớn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quan sát và xâu chuỗi của tay máy. Tuy nhiên, việc lạm dụng tiết tấu, thiếu suy ngẫm và phân tích sẽ dẫn đến những bức ảnh dập khuôn nhàm chán. Việc áp dụng hiệu quả bố cục này phải đi liền với các hiệu ứng ánh sáng, tạo bóng và góc đặt máy khác thường.

Ví dụ, một hàng cột tròn đều tăm tắp và sáng rõ trong nắng trưa sẽ không thể đẹp bằng bức ảnh chúng đứng trong ánh sáng xiên thấp hơi lệch phương ống kính. Nhờ nắng tạt ngang, bóng cột sẽ đổ dài tạo một hàng cột nữa nằm dưới đất, thân của chúng sẽ được “vê” tròn lẳn vì hiệu ứng chuyển sáng tối. Nếu đặt máy thật thấp dưới chân hàng cột với ống kính góc rộng, đầu của chúng sẽ sẽ chạm vào nhau và lao vút lên trời, rất thú vị. Nhiều khi các tiết tấu lại xuất hiện cùng hiệu ứng quang học và chỉ tác động vào ống kính ở một góc nhìn nhất định, vấn đề là phải tìm tòi và sáng tạo.

Thể hiện được kích cỡ vật thể hoặc khoảng cách

Kỹ thuật này giúp người xem ảnh hình dung kích thước của vật thể trong khuôn hình. Sử dụng tốt phép so sánh chênh lệch về kích thước có thể nêu bật được độ lớn của đối tượng trong bức ảnh. Ví dụ, nếu muốn minh hoạ độ lớn của một con voi nên đặt chú sáo bé như hạt gạo trên lưng nó. Ngược lại, khi chụp macro một bông hoa nhỏ, người ta nhấn mạnh mức phóng đại của bức ảnh bằng một chú kiến vàng lớn như con ong chúa. Vật thể làm mẫu so sánh nên thuộc loại hình ảnh quen thuộc, dễ hình dung kích thước như con người, ôtô, que diêm, cái bút… Có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của thủ pháp so sánh khi xem những thước phim hoạt hình kinh điển về người khổng lồ, tí hon. Tay máy khi đứng trước bối cảnh hoành tráng hay vật thể quá lớn, anh ta dễ bị ngợp tới mức quên mất là cần một vật thể so sánh. Kết quả là bức ảnh sẽ còn cảm xúc mà anh ta đã trải nghiệm, mọi thứ sẽ chỉ giống như cảnh trên bàn hay những món đồ chơi của trẻ con.

Tạo sức hút cho điểm nhấn của bức ảnh

Vùng trọng tâm hay điểm nhấn của bức ảnh được thể hiện bằng kỹ thuật tạo độ tương phản, hay đường dẫn hướng. Theo nguyên lý thị giác thì điểm tương phản nhất trong khuôn hình sẽ thu hút thị giác, vùng xẫm sẽ nặng và hút mắt hơn khoảng nhạt trắng. Mặt khác, ánh mắt người xem cũng sẽ di chuyển theo hướng chiếu của tia sáng trong khuôn hình, tức là đi từ chỗ nhạt nhất đến chỗ đậm nhất. Những đường cong, nét chéo kết thúc tại điểm nhấn sẽ dẫn ánh mắt người xem đến đó. Tuy nhiên, chúng cũng có thể gây hậu quả phân tán và khó hiểu nếu chỉ lệch hướng tới chủ đề chính.

Trong bố cục cổ điển, điểm mạnh của bức ảnh thường được đặt ở toạ độ giao nhau của đường 1/3 dọc và 1/3 ngang bức ảnh (gần 4 góc khuôn hình). Cách sắp xếp này đặc biệt phù hợp với cỡ phim 35 mm. Nhiếp ảnh hiện đại không bị lệ thuộc vào những công thức cổ điển. Thậm chí, những tay máy cách tân còn cố tính đặt chủ đề vào những vị trí oái oăm và điều đó lại gây sự chú ý và ấn tượng về bức ảnh. Thực ra, những tay máy này phải rất hiểu về Tỷ Lệ Vàng để có thể làm điều ngược lại và tạo nên hiệu quả thú vị. Giá trị cao nhất mà nhiếp ảnh hiện đại nhắm tới không hoàn toàn là cái đẹp, mà là cảm xúc và ấn tượng.


Đặc tính về cân bằng và trạng thái

Sự cân bằng trong bức ảnh sẽ quyết định trạng thái tĩnh hoặc động của nó. Nếu thủ pháp sử dụng đường chân trời nằm ngang chính giữa bức ảnh nhằm tạo nên cảm xúc tĩnh lặng, thì khi đặt nghiêng, đưa lên cao hay hạ xuống thấp sẽ cho hiệu quả động. Bức ảnh nhiều trời ít đất thì tạo cảm xúc nhẹ nhõm thanh cao. Còn khi đảo tỷ lệ này, những hiệu quả sẽ ngược lại. Mắt người xem có một đặc tính là bị thu hút theo hướng chuyển động của chủ đề. Do vậy, trong bố cục cổ điển các chuyển động phải hướng vào trong bức ảnh. Nhưng các nhiếp ảnh gia hiện đại lại không muốn người xem thấy ngay mọi thứ, họ đòi hỏi sự quan sát và suy ngẫm về thông điệp của bức ảnh, nên họ có thể không tuân thủ quy tắc này.

Sự cân bằng cũng bị chi phối bởi màu sắc, một chấm vàng tươi bên phải sẽ nặng bằng cả một mảng nhạt trắng. Cách lấy một diện tích nhỏ có sức hút mạnh để tạo ra sự cân bằng với một mảng lớn nhẹ nhõm hơn sẽ tạo ra trạng thái cân bằng động - một bố cục khá phổ biến trong nhiếp ảnh.

Chụm vào tản ra

Những nguyên tắc bố cục cổ điển (Tỷ Lệ Vàng):

- Đường chân trời ở 1/3 hoặc 2/3 chiều cao bức ảnh.
- Mỗi khuôn hình chỉ có một điểm mạnh, điểm này không đặt giữa ảnh mà phải ở toạ độ 1/3 rộng x 1/3 cao.
- Hướng ánh mắt người xem từ ngoài vào trong bức ảnh.
- Tận dụng nét lượn chữ S nếu có trong bối cảnh.


Việc sử dụng hình tròn hay những đường cong kín tạo nên sức hút khá mạnh và gây hiệu ứng hợp nhất - phương pháp thể hiện tốt những hiện thực đơn lẻ như bông hoa, mạng nhện… Khi được sử dụng hợp lý, bố cục này sẽ hướng sự chú ý vào giữa tâm của nó. Mục tiêu hợp nhất vào điểm mạnh còn có thể được thực hiện bởi nhiều đường dẫn hướng tới đối tượng chính (ví dụ: nút giao thông). Không cần phải là những nét dẫn thực thể, ánh mắt tập trung của các sinh vật trong khuôn hình cũng sẽ định hướng sự quan sát của người xem ảnh.

Thủ pháp bố cục phân tán thường được dùng để diễn giải những nội dung trừu tượng như: giận dỗi, làm ngơ, đa dạng, hỗn loạn… Đi liền với kỹ thuật này là ống kính góc rộng, bao quát nhiều cụm đối tượng mạnh tương đương. Ví dụ, bức hình chụp từ trên xuống một trung tâm giao dịch chứng khoán, hay một cái chợ ngoài trời đông đúc.

Phản ánh chiều sâu không gian

Là một thủ pháp rất hiệu quả để khắc phụ bản chất phẳng dẹt của bức ảnh. Một bố cục khéo léo có thể làm khuôn hình trở nên sâu hút, cũng có thể khiến chủ đề nổi bật hình khối trên một bối cảnh mờ nhoà. Nhiều khi một bức ảnh nét suốt từ cận cảnh tới vô cự không tạo cảm giác sâu bằng bức macro nét cạn, chính phần vật thể bị mờ lại tạo cảm giác về hình khối và chiều sâu không gian. Một bức ảnh bố cục tốt có thể bao gồm nhiều lớn không gian với các tone màu và cường độ chiếu sáng khác nhau. Kỹ thuật phổ biến là sử dụng cận cảnh làm khuôn hình, nhưng nếu không tìm được những mẫu khung đặc biệt thú vị thì bức ảnh khó mà thoát ra khỏi sự nhàm chán.

Yếu tố phụ trong bố cục

Phần trên tôi đã có nói qua về quan điểm bố trí chủ đề hay yếu tố chính của bố cục theo tỷ lệ vàng (dùng hay không dùng, áp dụng, vận dụng được hay không là do quan điểm của mỗi người sử dụng). Nhưng ngoài chủ thể ra các chủ đề phụ cũng không kém phàn quan trọng, nó là yếu tố quyết định để so sánh, để hỗ trợ tôn nên vẻ đẹp của chủ thể. Như thể hiện bông hoa thắm tươi, chúng ta thường chụp với cành, lá hay nhưng vật trang trí kèm theo... nhưng thứ đó được coi như yếu tố phụ (thực ra để rạch ròi nhiều nhà nhiếp ảnh còn phân chia thành hai loại: yếu tố phụ và bối cảnh).

Các yếu tố phụ này được chi làm 04 loại:

(1) Tiền cảnh
(2) Hậu cảnh
(3) Bầu trời
(4) Đường chân trời


1. Tiền cảnh:

Tiền cảnh trong bức ảnh thể hiện sự gần gủi, tính phàm tục: Một cành hoa bé khi chụp phong cảnh, một khóm khoai trước chú vịt... Đôi khi ta phải dùng tiền cảnh để che bớt những vật phụ khác trông không đẹp trong bức ảnh.

Kỹ tthuật để "xử lý tiền cảnh" là:

- Tiến lại gần hay chúc máy, ngửa máy để lấy nhiều hay ít tiền cảnh.

- Dùng ống kính góc rộng làm tăng tiền cảnh hay ống kính tele làm giảm tiền cảnh.

- Dùng tiền cảnh để gióng khung hình cho ảnh. Chẳng thế mà các bạn có thể thấy rất nhiều ảnh dùng vòm cổng, ngưỡng cửa, cửa sổ các nhánh cây.. để gióng khu cho ảnh.

- Tạo sự tương phản giữu xa và gần thông qua đậm và nhạt, thường tiền cảnh tối hậu cảnh sáng...

2. Hậu cảnh

Thực ra nếu đã xác định rõ chủ thể thì tất cả cái khác trong bức ảnh được gọi lại "hậu cảnh". Phân biệt chỉ mang tính tương đối. Ví dụ nếu chụp chân dung thì người đó là chủ đề chính, cây cối, nhà cửa ... phía sau là hậu cảnh. Điều tối kỵ theo quy tắc truyền thống là không được phép để chúng hoà trộn lẫn nhau, dẫn đến tình trạng cái tượng đằng sau như ngồi lên đầu người, cái cây đằng sau như mọc từ đầu người, cái bảng hiệu quảng cáo như xắp rơi xuống đầu người...

Kỹ thuật để "xử lý hậu cảnh" là:

Chiếu sáng là cách hữu hiệu khi chụp dàn dựng, bất cứ thứ gì nếu được chiếu sáng đều sẽ nhạt hơn trong vùng tối. Néu không phải lợi dụng các nguồn sáng chiếu qua khe cửa, lỗ thủng... (vì vậy càm la bàn để biết hướng ánh sáng sẽ chẳng bao giừo thừa cả). Chụp phong cảnh nhiều khi phải đợi mây làm xậm hậu cảnh để làm nổi bật chủ đề chính...

Canh nét cạn cũng rát phổ biến để "cắt đuôi" hậu cảnh ra khỏi chủ thể, đây chính là cách sử dụng sự tương phản giữu mờ và tỏ. Canh nét cạn bằng cách:

- Tiến gân chủ đề
- Để khẩu độ nhỏ (1; 1.4; 2; 2.8...)
- Dùng ống tele...

Lia máy (panning) cũng là cách tạo tương phản giữa tỏ và mờ. Lia máy là cách chụp các chủ đề đang chuyển động với vận tốc tương đối ổn định. Người càm máy di chuyển máy theo sự di chuyển của chủ đề và bấm chụp. Lúc đó, chủ đề sẽ rõ nét trên một hậu cảnh mờ nhoè nhằm tạo ấn tượng di chuyển của chủ đề.

( theo photovn )

Thursday, July 3, 2008

Sử dụng CIP4/PPF trong việc chỉnh mực trước trên máy in offset

Trung tâm điều khiển CP2000
Trung tâm điều khiển Prinect CP2000 của máy in Heidelberg
CIP4 đã trở nên một khái niệm quen thuộc trong ngành in và đã bắt đầu có ứng dụng trong thực tế. Giữa những lời hứa hẹn và thực tế đạt được vẫn còn một khoảng cách xa. Lỗi không nằm trong bản thân công nghệ mà nằm ở phía người sử dụng. Với CIP4/PPF người ta muốn có ngay lập tức màu sắc chính xác từ lần in đầu tiên với các dữ liệu được truyền trực tiếp từ chế bản. Thực tế đạt được chỉ là một quá trình chỉnh thô và vẫn cần người thợ in chỉnh tinh cho đến khi đạt được màu sắc như mong muốn. Tại sao lại như thế và làm cách nào để đạt được như mong muốn là có sự chính xác màu sắc ngay từ lần in vỗ bài đâu tiên vốn là mục đích của CIP4/PPF. Phạm vi bài viết nhỏ này muốn góp phần giải đáp câu hỏi trên.

Điều kiện cần để ứng dụng thành công CIP4/PPF

Tiêu chuẩn hóa là điều kiện tiên quyết khi muốn áp dụng CIP4/PPF. Khi nói đến tiêu chuẩn hóa thì chúng ta thường nghĩ đến một cái gì đó xa vời như ISO, DIN .. nhưng thật ra tiêu chuẩn hóa bắt đầu từ ý thức " Bạn có thể làm bất cứ điều gì nhưng hãy cho ra cùng một kết quả". Phải có một tiêu chuẩn, một giá trị có thể đo được để lượng hóa màu sắc để xác định được cái mà ta muốn. Chúng ta có thể sử dụng các tiêu chuẩn có sẵn như ISO 12647-2 hay SWOP hay Japan standard. Khi ứng dụng các tiêu chuẩn này có thể nó không phù hợp với cảm nhận màu của khách hàng in Việt nam vậy chúng ta hãy bắt đầu từ việc xây dựng cho riêng mình một tiêu chuẩn phù hợp với các khách hàng đặc thù của chúng ta. Thực tế cho thấy giá trị mật độ quang học tông nguyên của các màu cơ bản K= 1,84 D, C=M=1.55 D, Y=1,4D theo các tiêu chuẩn quốc tế cho các bài in sáng, có độ tương phản cao và chi tiết nhưng các khách hàng in Việt nam lại có ý thích khác. Họ muốn bài màu sắc đậm đà và rực rỡ kết quả là phải in dư mực. Khi đo đạc thường cho các kết quả K=2 D, C,M =1,6 D hay 1,65 D và Y= 1,4. Suy cho cùng thì khách hàng là người trả tiền cho sản phẩm in chính vì vậy mà cái họ muốn chính là tiêu chuẩn và là cái mà ta phải đạt ngay trong lần chạy máy vỗ bài đầu tiên. Điều quan trọng là chúng ta phải có con số , phải lượng hóa được màu sắc phù hợp với khách hàng của chúng ta, khi đó chúng ta đã có tiêu chuẩn của riêng mình và đó cũng chính là các giá trị phải đạt khi ứng dụng CIP4/PPF để chỉnh mực trước trên máy in offset.

Mục tiêu của tiêu chuẩn hóa là ta luôn có thể biết trước được kết quả in về màu sắc và kết quả này có thể được lặp lại tại bất kỳ thời điểm nào. Nó sẽ đạt được trong những điều kiện nhất định chứ không phải trong bất kỳ điều kiện nào. Tiêu chuẩn hóa phải bắt đầu ngay từ việc cung ứng vật tư in. Chất lượng sản phẩm in chịu ảnh hưởng của vô số các yếu tố khác nhau trong nhiều công đoạn sản xuất mà trong đó vật tư đóng vai trò lớn. Giữ số lượng chủng loại vật tư ở mức tối thiểu, nó có thể là một loại vật tư bất kỳ nhưng hãy luôn luôn là loại đó không thay đổi. Lý do đưa ra khi thay đổi liên tục các chủng loại vật tư là do giá thành thật ra không có sức thuyết phục. Hãy hình dung chúng ta có 4 loại mực offset cho các mức giá khác nhau và tuỳ theo sản phẩm in chúng ta phải thay mực 3 lần một ngày. Cái mà ta tiết kiệm được qua chênh lệch giá giữa các loại mực không bù đắp được chi phí giờ máy chết khi làm vệ sinh hệ thống mực, chi phí về giấy phế phẩm khi vỗ bài, chi phí mực hao phí với lượng mực dư. Phải có cách tiếp cận mới với vấn đề này - giữ ở mức tối thiểu các chủng loại vật tư và quan trọng hơn là giữ ổn định nó không thay đổi trong thời gian dài.

Tiêu chuẩn hóa là điều kiện tiên quyết cho thành công của việc ứng dụng CIP4/PPF nói cách khác là ta biết ta muốn gì một cách cụ thể.

Nguyên lý hoạt động của việc chỉnh mực trước trên máy in offset với file CIP4/PPF

Trên cơ sở dữ liệu ghi bản RIP có thể tạo ra file CIP4/PPF phục vụ việc chỉnh mực trước trên máy in offset tùy thuộc vào RIP có tuỳ chọn này hay không. Về bản chất nó chỉ là một hình ảnh bitmap độ phân giải thấp thể hiện toàn bộ bản in, giống như ta scan cái bản in với máy quét bản kẽm. Việc tạo ra file CIP4/PPF chỉ có ý nghĩa khi dùng CtP vì với CtF kể cả khi bình toàn trang cũng không cho kết quả có thể ứng dụng được vì lý do thiếu các thông tin kích thước bản kẽm. Ngoài hình ảnh bitmap ra trong file CIP4/PPF còn chứa nhiều thông tin khác nữa và điều này thì tuỳ thuộc vào chức năng của từng RIP của các hãng sản xuất khác nhau. Heidelberg Druckmachinen AG là người tiến xa nhất trong lĩnh vực này , file PPF tạo ra bởi RIP Meta Dimension chứa các thông tin quản lý như mã số khách hàng, tên khách hàng, mã lệnh sản xuất, tên công việc , số lượng in, các thông tin phục vụ việc thiết lập các thông số trên máy in như khổ giấy, độ dày giấy, chủng loại giấy, mực vv. Tất cả các thông tin này đều được chuẩn hoá theo chuẩn JDF 1.3. Ở điểm này người dùng thường lẫn lộn giữa các khái niệm hệ thống tương thích CIP4 (CIP4 compatibility) và hệ thống CIP4 ( CIP4 capability). Nếu file CIP4 chứa đủ các thông tin nêu trên thì nó là một file CIP4 thật sự còn không nó chỉ là một file tương thích CIP4 và có chứa một phần thông tin mà thôi. Phần lớn các RIP khác như Harlequin, EagleRIP chỉ tạo ra file PPF chứa duy nhất hình ảnh bản in.

Chu trinh CIP4
Các bước làm việc với file CIP4/PPF

File CIP4/PPF là một file tiêu chuẩn vì vậy nó tương thích với mọi hệ thống máy in với điều kiện có thông số đúng về máy in và máy in hiểu CIP4/PPF

File CIP4/PPF còn có thể tạo ra bằng con đường khác là dùng các phần mềm tạo ra từ các file TIFF-B dùng ghi bản kẽm, hay thậm chí từ PDF file. Đại diện cho các phần mềm dạng này là Inkzone. Nhiều hãng sản xuất máy in, máy CtP cung cấp phần mềm này với một tên khác để làm giải pháp cho CIP4. Các file do hệ thống này tạo ra chỉ là những file tương thích CIP4 mà thôi nó thiếu nhiều thông tin quan trọng khi muốn đạt mục đích màu sắc chính xác ngay từ lần đầu tiên chạy máy.

Phần mềm chuẩn bị dữ liệu cho máy.

Các phần mềm này có thể mang nhiều tên khác nhau , của Heidelberg là Prinect PrepressInterface hay Pressroom Manager , của MAN Roland là Printnet pressmanager hay K-Station của Komori. Nhiệm vụ của các phần mềm này là tính toán phần trăm độ phủ bề mặt của các phần tử in trong từng vùng khóa mực của loại máy in tương ứng. Một điều cần lưu ý là phần mềm của Heidelberg thì chỉ tính toán cho máy in Heidelberg, của Roland thì chỉ tính cho Roland mà không có chuyện dùng Heidelberg tính toán cho Mitsubishi hay ngược lại. Cách hiện thực giữa các hãng cũng khác nhau nhưng xu thế là một trạm làm việc được cài đặt phần mềm sẽ đóng vai trò như một trạm chuẩn bị công việc trung tâm cho mọi máy in.

File CIP4/PPF tương đối nhỏ khoảng 1-3 MB dễ dàng lưu trữ truyền qua LAN,Ftp tới máy in. Nếu muốn tận dụng toàn bộ các chức năng của CIP4 thì điều lkiện bắt buộc là phải on-line tức là máy in cũng phải được nối mạng. Việc dùng các môi trường như job memory card của Heidelberg, MAN Roland Chipcard hay floppy disk cho các máy in Nhật bản sẽ chỉ lưu trữ được duy nhất thông số chỉnh mực cho từng khóa mực.

Thiết bị đo màu quang phổ như ImageControl hay các InpressControl đo màu quang phổ on-line trong máy in Heidelberg cũng cần có các giá trị màu lab tham chiếu. Các giá trị này sẽ do Prinect PrepressInterface hay Pressroom Manager tạo ra trên cơ sở file CIP4/PPF từ RIP của chế bản. Hệ thống này là duy nhất hiện nay và nó cho thấy Heidelberg là nhà sản xuất tiến xa nhất trong lĩnh vực này.

Thiết lập thông số độ mở khóa mực trên máy in offset

Trong các trạm điều khiển trung tâm của máy in offset hiện đại bao giờ cũng có các đồ thị đặc tuyến của mực in ( Ink presetting curve). Khi đọc các file CIP4/PPF đã được tính toán phần trăm độ phủ bề mặt tương ứng theo từng vùng khoá mực thì chương trình sẽ tính toán giá trị cụ thể của độ mở của khóa mực đó.

Vấn đề đang tồn tại là độ mở khóa mực tính toán bằng cách này chỉ dựa vào duy nhất phần trăm độ phủ bề mặt thì không thể chính xác được. Người thợ in vẫn phải tiếp tục điều chỉnh tuỳ theo giấy mực của bài in và tuỳ theo ý thích khách hàng.

Đồ thị đặc tuyến mực in
Đồ thị ink presetting của trung tâm điều khiển máy in Heidelberg Prinect CP2000